“HÃY ĐI KHẮP THẾ GIỚI VÀ RAO GIẢNG TIN MỪNG CHO MUÔN DÂN.”

Trần Mỹ Duyệt

 

“Hãy đi khắp thế giới và rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.” (Mk 16:15). Và,

 

“Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em.” (Mt. 28:19)

 

Ai đi và đi đâu? Khi nghe hai lời truyền dạy trên của Chúa Giêsu, chúng ta nghĩ ai sẽ là người được trao sứ mạng ra đi và rao giảng Tin Mừng? Phần đông, theo quan niệm xưa vẫn cho rằng, đó là những lời Chúa nói với các tông đồ, môn đệ của Ngài. Họ là các giám mục, linh mục, tu sỹ nam nữ. Nhưng ít ai nghĩ rằng những lời này Chúa cũng nói với tất cả mọi người, mọi tín hữu là những người tin vào Ngài, được sinh ra trong ân sủng. Trong ngày lĩnh Bí Tích Rửa Tội, tất cả chúng ta đều được chia sẻ với Chúa Kitô trong cùng một Thánh Thần ba thiên chức: Tư Tế, Tiên Tri và Vương Giả.

 

Chúa Nhật Khánh Nhật Truyền Giáo đã qua, nhưng tôi vẫn còn nhớ rất rõ bài giảng của Phó Tế Vũ Anh đã chia sẻ với cộng đoàn dân Chúa Thánh Linh hôm đó. Và điều khiến tôi suy nghĩ là câu chuyện về một em bé:

 

Em sinh ra trong một gia đình nghèo, đông con thuộc một xứ đạo tại miền châu thổ sông Hồng Hà. Bố mẹ tuy nghèo nhưng không quên dạy dỗ con cái một cách chu đáo về phần đạo đức. Một trong những thói quen của gia đình là mỗi tối trước khi đi ngủ, cả nhà đều quây quần trước bàn thờ Đức Mẹ đọc một kinh Lạy Cha, hai Kinh Kính Mừng, một kinh Sáng Danh, sau đó mỗi người dâng một lời nguyện ngắn. Bà mẹ cũng luôn nhắc nhở các con rằng: “Dù đi đâu, làm gì, nhất là những lúc gặp khó khăn thì phải luôn chạy đến với Chúa và Đức Mẹ.”

 

Gia đình em vẫn luôn luôn trung thành với thói quen cầu nguyện này, và chính người mẹ cũng không bao giờ nghĩ rằng những lời mình nói với các con lại có một ảnh hưởng lớn lao đến đời sống tâm linh, cũng như thể chất của các con bà như vậy. Cho đến một hôm, đứa bé nhất của bà bị một căn bệnh hiểm nghèo đòi phải qua một cuộc giải phẫu mới hy vọng cứu sống. Gia đình đã cố gắng chạy chữa và lo cho em được lên Hà Nội để chữa trị.

 

Trước khi gây mê cho em bé, vị bác sỹ cầm tay em và nói: “Bác sẽ làm cho con ngủ đây, khi tỉnh dậy con sẽ thấy mình khỏe lại.” Vừa khi nghe đến chữ “ngủ”, em vội ngồi dậy và nói với vị bác sỹ: “Trước khi đi ngủ, cháu phải cầu nguyện trước đã. Xin bác sỹ chờ cháu cầu nguyện xong đã.” Rồi em đọc một Kinh Lạy Cha, hai Kinh Kính Mừng, một Kinh Sáng Danh và dâng một lời nguyện như mẹ em đã dạy mà em vẫn thường làm mỗi tối trước khi đi ngủ…

 

Sáng hôm sau, khi tỉnh lại, em thấy mọi người trong nhà thương có cả vị bác sỹ hôm qua đang vây quanh giường em. Em định nói lời cám ơn, nhưng vị bác sỹ đó đã cầm tay em và nói: “Bác phải cám ơn con, vì con đã làm cho bác một việc hết sức trọng đại.” Rồi ông kể câu chuyện về đời mình cho cả gia đình nghe. Ông vốn là đảng viên trung kiên, và vì sự nghiệp, danh vọng, ông đã bỏ đạo 38 năm tuy trong lòng rất hối hận. Tối qua ông đã mất ngủ vì thái độ và lời cầu có tính cách tuyên xưng đức tin của em bé bệnh nhân này, nên sáng nay trước khi đến bệnh viện, ông đã đến nhà thờ xưng tội và tham dự thánh lễ. Và ông kết luận: Dù bây giờ tôi có bị đuổi khỏi đảng, tước bỏ mọi chức vụ, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận…

 

Phó tế Anh sau đó đã dựa theo ý nghĩa của ngày Khánh Nhật Truyền Giáo, nêu lên một câu hỏi mang tính cách thực hành: “Vậy trong câu truyện này, ai là nhà truyền giáo? Ai đã đưa một đảng viên Cộng Sản về lại Giáo Hội, về với Đức Tin Công Giáo?”

 

Dĩ nhiên không có hình ảnh của một hồng y, tổng giám mục, giám mục, linh mục, phó tế hay bất cứ một tu sỹ nào trong câu chuyện vừa kể trên. Nhưng ai cũng biết rằng, nhà truyền giáo trong câu truyện này chính là em bé và cũng là một bệnh nhân rất dễ thương. Phép lạ đã xảy ra không phải trên tòa giảng, không phải bằng những cuộc rước sách linh đình, những buổi diễn nguyện được dàn dựng công phu, hoặc những buổi hội thảo, chia sẻ và học hỏi giáo lý. Nó đã xảy ra bằng với tấm lòng và sự thành thật đơn sơ của một em bé ngay trên giường bệnh của bệnh viện. Và sau em là bóng dáng một nhà truyền giáo khác với tâm hồn đạo hạnh, bình dân, và khiêm tốn là mẹ em. Bà đã huấn luyện được một vị tông đồ, một nhà truyền giáo.

 

Câu truyện trên cũng nhắc tôi nhớ đến một “gia đình” truyền giáo. Một gia đình không có ai là giám mục, linh mục truyền giáo, nhưng lại có những con người với trái tim truyền giáo.    

 

Ngày 18 tháng 10, 2015, Chúa Nhật Truyền Giáo, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên phong cha mẹ Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu là Louis Martin (1823-1894) và Marie Zelie Guerin Martin (1831-1877) lên hàng hiển thánh. Họ là cặp vợ chồng đầu tiên trong lịch sử hơn 2000 năm của Giáo Hội được tuyên thánh cùng nhau trong cùng một ngày.

 

Cả hai đã kết hôn năm 1858, có 9 người con, bốn trong số đó đã qua đời ở tuổi nhỏ, còn lại 5 người con gái tất cả đều dâng mình cho Chúa: 4 trong dòng Kín Carmelô ở Lisieux gồm Marie, Pauline, Céline, Thérèse (Têrêsa), và một trong dòng Mẹ Thăm Viếng là Léonie.  

 

19 năm trong đời sống hôn nhân, hai đấng đã không làm gì nổi trội hơn là tham dự các thánh lễ hàng ngày, cầu nguyện, ăn chay, giữ ngày Chúa Nhật, và thăm viếng những người già cả, bệnh tật, nghèo đói, và hoàn tất những công việc nhỏ mọn, tầm thường mà ai cũng có thể làm được trong vài trò làm chồng, làm vợ, làm cha, làm mẹ, và chị em với nhau. Là người mẹ trong gia đình, Thánh Marie Zelie Guerin Martin đã ảnh hưởng trên các con cái mình. Kết quả là Têrêsa đã trở thành một đại thánh, một tiến sỹ Hội Thánh, là bổn mạng các xứ truyền giáo. Sau khi nghiên cứu các tài liệu về thánh Thérèse, nhiều nhà thần học và sử học đều tìm thấy ảnh hưởng và tinh thần truyền giáo của Pauline đã thôi thúc Thérèse. Ngoài ra, các nữ tu còn lại của gia đình này đều được mọi người tôn kính và cầu xin mỗi khi thăm viếng đan viện Carmelô tại Lisieux. Riêng Léonie, ngày 2 tháng 7, 2015 hồ sơ phong thánh cấp giáo phận đã được mở, chị được nâng lên hàng “Tôi Tớ Chúa.”   

 

Những trường hợp trên, những con người trên là một dấu chỉ cho thấy việc truyền giáo và sứ mạng truyền giáo, đặc biệt ở vào thời đại hôm nay, không còn là một đặc ân hay đặc quyền của giới tu hành. Truyền giáo và sứ mạng truyền giáo thuộc về mọi Kitô hữu, những người đã đón nhận phép Thánh Tẩy, với sứ mạng “tiên tri”.  

Vậy khi chúng ta nghe lời Chúa Giêsu nói về việc rao giảng Tin Mừng, rao giảng Phúc Âm như lời Ngài truyền cho các môn đệ trước khi về trời: “Hãy đi khắp thế giới và rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.” (Mk 16:15) Và: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (Mt 28:19), thì đừng nghĩ rằng công việc ấy thuộc về các vị tu hành, các nhà truyền giáo, để rồi sống dửng dưng như người không tin tưởng. Thánh Gioan Phaolô II khi còn trên ngôi Giáo Hoàng, qua Tông Huấn Người Tín Hữu Giáo Dân (CHRISTIFIDELES LAICI) đã cảnh cáo thái độ tiêu cực, ươn lười của các tín hữu không quan tâm đến cánh đồng truyền giáo của Giáo Hội như sau:   

 

“Những hoàn cảnh đổi mới trong Giáo Hội cũng như của thế giới, trong thực tại xã hội, kinh tế, chính trị và văn hóa hôm nay đòi hỏi một cách đặc biệt hoạt động của người tín hữu giáo dân. Nếu trước đây ai làm ngơ là điều không thể chấp nhận được, thì hiện giờ đều ấy lại càng đáng khiển trách hơn. Không ai được phép ở không, không làm gì.” (A new state of affairs today both in the Church and in social, economic, political and cultural life, calls with a particular urgency for the action of the lay faithful. If lack of commitment is always unacceptable, the present time renders it even more so. It is not permissible for anyone to remain idle.) [1]

 

(Khánh Nhật truyền giáo, 23 tháng 10 năm 2022)